Open navigation

Công văn 8681/BNV-CTL&BHXH ngày 29/09/2025 Trả lời kiến nghị của cử tri gửi tới sau Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV về sửa đổi các quy định bảo hiểm xã hội tuổi

BỘ NỘI VỤ
__________

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
___________________________________

Số: 8681/BNV-CTL&BHXH

V/v trả lời kiến nghị của cử tri gửi tới sau Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV

Hà Nội, ngày 29 tháng 9 năm 2025

 Kính gửi: Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Ngãi

Bộ Nội vụ nhận được kiến nghị của cử tri tỉnh Quảng Ngãi gửi tới sau Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV do Ủy ban Dân nguyện và Giám sát của Quốc hội chuyển đến theo Công văn số 1140/UBDNGS15 ngày 07/8/2025, nội dung kiến nghị như sau:

“4. Đề nghị Bộ Nội vụ phối hợp với các cơ quan hữu quan xem xét rà soát, sửa đổi và bổ sung các quy định về bảo hiểm xã hội, tuổi nghỉ hưu, quyền lợi người lao động và tiền lương tối thiểu bảo đảm tương xứng với thực tế phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đồng thời, giảm ngưỡng tuổi hưởng chính sách bảo trợ xã hội (hiện là 70 tuổi) để mở rộng đối tượng thụ hưởng.”

Bộ Nội vụ có ý kiến như sau:

1. Về việc rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định về bảo hiểm xã hội, tuổi nghỉ hưu, quyền lợi người lao động (về bảo hiểm xã hội)

Về việc rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định về bảo hiểm xã hội, quyền lợi người lao động: Thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao, Bộ Nội vụ đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương đánh giá tổng kết thi hành Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13, trên cơ sở đó nghiên cứu xây dựng và trình Chính phủ, trình Quốc hội dự án Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi). Ngày 29/6/2024, tại Kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Bảo hiểm xã hội số 41/2024/QH15. Luật Bảo hiểm xã hội số 41/2024/QH15 đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung nhằm: (i) thể chế hoá các nội dung cải cách được nêu tại Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 tại Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương khoá XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội (sau đây viết là Nghị quyết số 28-NQ/TW); (ii) khắc phục căn bản những vướng mắc, hạn chế phát sinh trong quá trình thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13, phù hợp với sự phát triển của kinh tế - xã hội; (iii) mở rộng, gia tăng quyền, lợi ích, tạo sự hấp dẫn để thu hút người lao động tham gia bảo hiểm xã hội.

Luật Bảo hiểm xã hội số 41/2024/QH15 đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định tăng quyền lợi thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động, có thể kể đến một số sửa đổi chính như: (i) quy định mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với một số nhóm đối tượng[1]; (ii) quy định giảm điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu để được hưởng lương hưu từ 20 năm xuống còn 15 năm[2] để tạo cơ hội cho nhiều người được hưởng lương hưu hơn; (iii) quy định giảm điều kiện để được hưởng chế độ thai sản khi sinh con đối với lao động nữ phải nghỉ việc để điều trị vô sinh[3]; (iv) quy định việc giải quyết chế độ ốm đau đối với người lao động nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau không trọn ngày[4];... Ngoài ra, Bộ Nội vụ đã phối hợp với các bộ, ngành có liên quan xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 159/2025/NĐ-CP ngày 25/6/2025 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội tự nguyện, trong đó, điều chỉnh mức hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội đối với người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện với mức tăng từ 1,5 - 2 lần so với mức hỗ trợ trước đây[5].

Về vấn đề tuổi nghỉ hưu: Vấn đề tuổi nghỉ hưu đã được Trung ương thảo luận trong Đề án cải cách chính sách bảo hiểm xã hội tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII và thống nhất thông qua tại Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội. Thể chế hóa chủ trương tăng tuổi nghỉ hưu tại Nghị quyết số 28-NQ/TW, Quốc hội đã thống nhất ban hành Bộ luật Lao động số 45/2019/QH14, trong đó nội dung tuổi nghỉ hưu, điều kiện về tuổi hưởng lương hưu đã được quy định tại Điều 169 và Điều 219.

Trong quá trình nghiên cứu, xây dựng Bộ luật Lao động số 45/2019/QH14, vấn đề tuổi nghỉ hưu đã được trao đổi, thảo luận và đánh giá một cách kỹ lưỡng, tổng thể các mặt có liên quan; chính vì vậy, Bộ luật Lao động quy định việc điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu không thực hiện tăng ngay lên 62 tuổi đối với nam và 60 tuổi đối với nữ mà được điều chỉnh theo lộ trình mỗi năm chỉ tăng thêm 03 tháng đối với lao động nam và 04 tháng đối với lao động nữ cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035. Đối với người lao động bị suy giảm khả năng lao động; làm nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn so với tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường.

Chính vì vậy, Luật Bảo hiểm xã hội số 41/2024/QH15 đã kế thừa, đảm bảo tính thống nhất về tuổi nghỉ hưu đã được quy định tại Bộ luật Lao động.

2. Về mức lương tối thiểu

Theo quy định tại Điều 91 của Bộ luật Lao động số 45/2019/QH14 thì mức lương tối thiểu là mức lương thấp nhất được trả cho người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Chính phủ quyết định và công bố mức lương tối thiểu trên cơ sở khuyến nghị của Hội đồng tiền lương quốc gia. Trên cơ sở Báo cáo số 009/BCHĐTLQG ngày 25/7/2025 của Hội đồng tiền lương quốc gia về khuyến nghị Phương án lương tối thiểu năm 2026, Bộ Nội vụ đang chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành xây dựng dự thảo Nghị định quy định mức lương tối thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động, dự kiến trình Chính phủ trong tháng 10/2025 để điều chỉnh mức lương tối thiểu tăng bình quân 7,2% so với mức hiện hành, áp dụng từ ngày 01/01/2026.

3. Về giảm ngưỡng tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội[6]

Trong thời gian qua, Chính phủ đã nhiều lần ban hành các văn bản hạ độ tuổi và nâng mức trợ cấp xã hội đối với người cao tuổi, cụ thể: Nghị định số 30/2002/NĐ-CP ngày 26/3/2002 quy định người cao tuổi từ 90 tuổi trở lên được hưởng trợ cấp xã hội; Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 tiếp tục giảm độ tuổi xuống còn 85 tuổi; Nghị định số 06/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người cao tuổi số 39/2009/QH12, giảm độ tuổi được hưởng trợ cấp xã hội xuống còn từ đủ 80 tuổi đối với người cao tuổi không có lương hưu hoặc trợ cấp xã hội của Nhà nước. Ngày 15/3/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 20/2021/NĐ-CP về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội, mở rộng thêm đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng là người cao tuổi từ 75 đến dưới 80 tuổi thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, sinh sống tại các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn.

Ngày 29/6/2024, tại Kỳ họp thứ bảy, Chính phủ đã trình Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Bảo hiểm xã hội số 41/2024/QH15 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025). Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 21 của Luật Bảo hiểm xã hội số 41/2024/QH15 thì điều kiện về tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội đối với công dân Việt Nam không hưởng lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng là từ đủ 75 tuổi trở lên, từ đủ 70 tuổi trở lên nếu thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo. Ngày 30/6/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 176/2025/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về trợ cấp hưu trí xã hội.

Việc hạ độ tuổi và mở rộng đối tượng thụ hưởng các chính sách trợ cấp xã hội và hưu trí xã hội đối với người cao tuổi là nỗ lực lớn của Đảng và Nhà nước, trong bối cảnh ngân sách nhà nước còn nhiều khó khăn, thể hiện sự quan tâm sâu sắc đối với công tác an sinh xã hội.

Đối với kiến nghị giảm ngưỡng tuổi hưởng chính sách bảo trợ xã hội (hiện đang là 70 tuổi) để mở rộng đối tượng thụ hưởng; việc này cần được xem xét trong tổng thể các chính sách an sinh xã hội và bảo vệ người cao tuổi, phụ thuộc vào ngân sách nhà nước từng thời kỳ, đồng thời phải có nghiên cứu đánh giá tác động về kinh tế - xã hội để bảo đảm tính khả thi và bền vững của hệ thống trợ cấp xã hội trong thời gian tới. Điều này cũng phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 21 của Luật Bảo hiểm xã hội số 41/2024/QH15 quy định Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh giảm dần độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội trên cơ sở đề nghị của Chính phủ phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và khả năng của ngân sách nhà nước từng thời kỳ.

Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2, Điều 1, Nghị định số 76/2024/NĐ-CP ngày 01/7/2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội có quy định, trong trường hợp điều kiện kinh tế - xã hội địa phương bảo đảm, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể trình Hội đồng nhân dân quyết định mức trợ giúp xã hội cao hơn quy định hoặc mở rộng đối tượng hưởng chính sách trợ giúp xã hội cho các trường hợp khó khăn chưa được quy định trong Nghị định.

Trên đây là ý kiến của Bộ Nội vụ, trân trọng gửi tới Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Ngãi để trả lời cử tri./.

 
Nơi nhận:
- Như trên;
- Ủy ban Dân nguyện và Giám sát của Quốc hội;
- Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Ngãi;
- Văn phòng Quốc hội;
- Bộ Y tế;
- Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà;
- Thứ trưởng Nguyễn Mạnh Khương;
- Văn phòng Bộ;
- Trung tâm Công nghệ Thông tin;
- UBND, Sở Nội vụ tỉnh Quảng Ngãi;
- Lưu: VT, CTL&BHXH(TTN);

BỘ TRƯỞNG




 Phạm Thị Thanh Trà

 

 

_____________________________________

[1] Chủ hộ kinh doanh, người quản lý doanh nghiệp, người quản lý, điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương, người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không trọn thời gian, người hoạt động không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố... được quy định tại điểm l, k, m, n khoản 1 và khoản 6 Điều 2 của Luật Bảo hiểm xã hội số 41/2024/QH15.

[2] Khoản 1 Điều 64 và Điều 98 Luật Bảo hiểm xã hội số 41/2024/QH15.

[3] Khoản 5 Điều 50 Luật Bảo hiểm xã hội số 41/2024/QH15.

[4] Khoản 5 Điều 45 Luật Bảo hiểm xã hội số Luật Bảo hiểm xã hội số 41/2024/QH15.

[5] Người tham gia thuộc hộ nghèo được điều chỉnh tăng từ mức hỗ trợ 30% lên thành 50%; bổ sung quy định về mức hỗ trợ (bằng 50%) đối với người đang sinh sống tại xã đảo, đặc khu theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; người tham gia thuộc hộ cận nghèo được điều chỉnh tăng từ mức hỗ trợ 25% lên thành 40%; bổ sung quy định về mức hỗ trợ (bằng 30%) đối với người tham gia là người dân tộc thiểu số; người tham gia khác được điều chỉnh tăng từ mức hỗ trợ 10% lên thành 20% (được quy định tại Điều 5 Nghị định số 159/2025/NĐ-CP ngày 25/6/2025 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội tự nguyện).

[6] Theo Công văn số 6576/BYT-VPB ngày 25/9/2025 của Bộ Y tế về việc phối hợp trả lời kiến nghị cử tri.

Tải về văn bản (file PDF):

Câu trả lời này có giúp ích cho bạn không? Yes No

Send feedback
Rất tiếc là chúng tôi không giúp được nhiều. Hãy giúp chúng tôi cải thiện bài viết này bằng phản hồi của bạn.